Đây là tập 
thứ tư của bộ sách năm tập, cùng mang tên gọi chung là DANH TƯỚNG VIỆT NAM. 
Tương tự như các tập trước, tập thứ tư cũng có một tên gọi riêng, đó là Danh 
tướng trong sự nghiệp đấu tranh chống ách đô hộ của phong kiến Trung Quốc. Hẳn 
là hầu hết bạn đọc đều đã rõ rằng lịch sử Việt Nam có hai thời kì bị các triều 
đại phong kiến Trung Quốc đô hộ. 
– 
Thời kì thứ nhất bắt đầu từ năm 179 trước Công nguyên (TCN, năm An Dương Vương 
bị Triệu Đà đánh bại) cho đến năm 905 (năm Khúc Thừa Dụ thành lập chính quyền 
độc lập và tự chủ), tổng cộng hơn 1000 năm. Sử thường gọi đó là thời Bắc thuộc. 
Tất nhiên là không phải ai ai cũng đồng ý, nhưng dẫu sao thì tính phổ biến và sự 
thông dụng của khái niệm thời Bắc thuộc là một thực tế không thể nào phủ nhận 
được. 
– 
Thời kì thứ hai bắt đầu từ năm 1407 (năm nhà Hồ đại bại trước cuộc xâm lược của 
nhà Minh) và chấm dứt vào năm 1427 (năm cuộc chiến tranh giải phóng vĩ đại do Lê 
Lợi khởi xướng và lãnh đạo kết thúc toàn thắng), tổng cộng là 20 năm. Sử thường 
gọi đây là thời thuộc Minh. 
Tập 
thứ tư này xin được trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc gần xa cuộc đời, sự 
nghiệp và những cống hiến lớn lao của các bậc danh tướng trong cả hai thời kì bị 
đô hộ nói trên. Nếu chỉ đơn giản xếp theo diễn tiến của thời gian thì Lam Sơn 
cũng thuộc phạm vi của thời kì thứ hai, nhưng xét về quy mô, đặc trưng và tầm 
vóc thì Lam Sơn lại có một vị trí hoàn toàn khác hẳn, do vậy, chúng tôi đã dành 
trọn tập hai để giới thiệu Danh tướng Lam Sơn chứ không xếp chung với các danh 
tướng của thời thuộc Minh. 
Đặc 
điểm chung về sự nghiệp của các bậc danh tướng được giới thiệu trong tập thứ tư 
này là không một ai trong số họ có may mắn được chứng kiến thắng lợi trọn vẹn và 
bền lâu của mình. Trước sau, sớm muộn tuy có khác nhau nhưng tất cả đều anh dũng 
ngã xuống trong cuộc chiến đấu ngoan cường với quân cướp nước. Mỗi cuộc đời là 
một bức thông điệp trang nghiêm về khí phách hiên ngang, về ý chí quật cường và 
về quyết tâm giành lại cho bằng được độc lập và chủ quyền của đất nước. Họ là 
tinh hoa của lịch sử và chính những tinh hoa ấy về sau đã được Chủ tịch Hồ Chí 
Minh đúc kết thành lời tuyên bố thật đanh thép : “Không! Chúng ta thà hi sinh 
tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Họ 
chính là những nền tảng lịch sử giàu sức thuyết phục nhất của chân lí “không có 
gì quý hơn độc lập tự do” 
So 
với những danh tướng đã được giới thiệu trong ba tập đầu, các danh tướng ở tập 
thứ tư này đều chịu chung một thiệt thòi rất lớn, đó là hệ thống tư liệu hiện 
còn rất ít ỏi. Phải đến gần bốn thế kỉ sau khi thời Bắc thuộc kết thúc, nền sử 
học của nước nhà mới chính thức ra đời. Các sử gia lỗi lạc của thế hệ tiên khởi 
dù cầm bút với trọn vẹn tâm thành và chí cả vẫn không sao có thể viết nhiều hơn 
và đầy đủ hơn. Dưới thời thuộc Minh, hàng loạt những di sản văn hoá vô giá của 
tổ tiên ta (trong đó có rất nhiều sách vở) bị kẻ thù huỷ hoại hoặc tịch thu, hậu 
thế khổ công sưu tầm suốt bao thế kỉ nay rồi mà cũng chỉ tìm lại được một phần 
rất nhỏ. Thực tình mà nói, kho thư tịch cổ của Trung Quốc không phải là nhỏ và 
trong đó cũng có không ít những nội dung liên quan tới nước ta. Nhưng xét về bản 
chất chung thì tất cả những thư tịch cổ này đều phản ánh ý chí xâm lăng và đô hộ 
của Trung Quốc đối với nước ta. Chân dung các đấng hào kiệt dám quả cảm vùng lên 
“khuấy nước chọc trời” và dám làm cho “kinh thiên động địa” đều bị các sử gia 
Trung Quốc tìm cách bóp méo hoặc ra sức xuyên tạc. Trong điều kiện đặc biệt khó 
khăn như vậy, việc tìm kiếm tư liệu đã khó, việc đối sánh, xác minh và chỉnh lí 
tài liệu lại còn khó hơn.